Nhà Máy Sản Xuất Thuốc Phiện Tại Sài Gòn Thời Pháp Thuộc
14th Dec 2019Khi thuốc phiện là nguồn tài chính của thuộc địa
Thuốc phiện đã đóng góp tới 25% vào ngân sách của Đông Dương
Bài viết dưới đây dựa theo Tập san của Hội Nghiên cứu Đông Dương tại Sài Gòn, năm 1917.
Thuốc phiện ở Đông Dương:
Từ khi chiếm được Đông Dương, người Pháp đã biết đến một nguồn lợi tài chính họ có thể thu được từ thuốc phiện mà sự tiêu thụ đã lan tràn khắp nơi trong dân chúng.
Năm 1861, hai người Pháp đã được dành cho độc quyền buôn bán thuốc phiện, với một khoản lệ phí nộp cho chính quyền mỗi năm là 92.000$, nhưng mặc dù được hưởng những ưu đãi, việc kinh doanh của họ đã gặp nhiều trở ngại.
Đến năm 1864 và sau đó, bằng phương thức đấu thầu do chính quyền thuộc địa tổ chức 3 năm một lần, độc quyền buôn bán thuốc phiện đã luôn về tay những người Trung Hoa, ban đầu thuộc bang Quảng Tây rồi sau đó là Phúc Kiến. Do sự câu kết thông đồng của những người Hoa tham dự thầu, số tiền thu về cho chính quyền qua các kỳ đấu thầu mãi không tăng thêm được bao nhiêu, dù việc buôn bán thuốc phiện của họ ngày càng mở rộng và phát triển.
Năm 1881, Toàn Quyền Le Myre de Vilers quyết định thay thế việc nhượng quyền buôn bán thuốc phiện bằng việc quản lý trực tiếp của chính quyền thuộc địa. Thật ra, vị toàn quyền này biết rằng nếu nằm trong tay người Trung Hoa, việc buôn bán thuốc phiện chẳng khác nào một võ khí nguy hiểm cho nền an ninh và quyền lợi của người Pháp.
Đến cuối năm 1881, Cơ quan Thuế Trực thu được thành lập để bảo đảm việc khai thác độc quyền về rượu và thuốc phiện, và cũng để tiếp tục theo đuổi việc thu thuế đánh vào lúa gạo xuất khẩu. Chính vào thời kỳ này mà nhà máy chế biến thuốc phiện được thành lập ở Sài Gòn.
Mua nguyên liệu và Chế biến:
Hầu hết thuốc phiện tiêu thụ tại Đông Dương được nhập cảng từ Ấn Độ, sau khi nguồn thuốc phiện từ Vân Nam (Trung Quốc) bị ngừng xuất khẩu. Còn nguồn thuốc phiện nhập từ vùng cao nguyên Bắc Việt và Lào chỉ là một lượng nhỏ bé không đáng kể.
Thuốc phiện thô được vận chuyển đến nhà máy duy nhất của chính quyền thuộc địa [tại số 74 đường Paul Blanchy, tức Hai Bà Trưng ngày nay, gần phía sau Nhà Hát Thành phố], nơi mà dân Sài Gòn ai cũng biết. Việc sản xuất thuốc phiện tại nhà máy chủ yếu là chế biến từ nhựa thuốc phiện thô thành thuốc phiện cho người hút, tức là chế biến lại thành một chất đặc và dẻo, loại bỏ phần lớn những chất alcaloïde có trong nhựa thuốc phiện và một số chất hồ keo có thể tác hại đến sức khoẻ người tiêu thụ.
Thuốc phiện được chế biến tại Sài Gòn theo phương pháp của người Quảng Đông, sự cải tiến duy nhất là việc sử dụng thiết bị chưng cất của Tây phương để có được tỷ lệ thu hồi thành phẩm cao hơn các lò nấu của người Trung Hoa và cho ra một sản phẩm thuần khiết hơn nhiều. Toàn bộ quy trình chế biến thuốc phiện thường phải mất 3 ngày.
Độc quyền bán:
Nhà máy bán trực tiếp thuốc phiện cho các nhà bán lẻ có môn bài.
Thuốc phiện bán cho người hút được chứa trong những hộp bằng đồng thau với các cỡ 5, 10, 20, 40 và 100 gram. Những hộp này được đóng niêm dấu của nhà máy và mác lô hàng giúp truy rõ nguồn gốc khi có tranh cãi vì nghi ngờ hàng giả mạo.
Giá bán thuốc phiện được ấn định bởi những nghị định của chính quyền. Giá này khác nhau tùy theo từng vùng trong Đông Dương, giá được xem xét dựa theo mức độ giàu nghèo của các nơi và đặc biệt là tùy theo vị trí địa lý của các vùng. Theo đó, thuốc phiện được bán giá hạ dọc theo vùng biên giới Lào và biên giới Bắc Kỳ để hạn chế việc làm giả.
Tổng ngân sách năm 1902 của Đông Dương là 27 triệu đồng (piastres), dự kiến thu được 7 triệu từ việc bán thuốc phiện; năm 1905 nguồn thu dự kiến từ độc quyền bán thuốc phiện là 8,1 triệu, với ngân sách của năm này là 32 triệu đồng. Như vậy khoảng ¼ ngân sách của Đông Dương đã được trang trải nhờ nguồn thu từ thuốc phiện.
. . . . . . . . . . . . .
Cuộc chiến chống thuốc phiện:
Ngày 16-9-1906, Hoàng đế Trung Quốc ra một chiếu dụ tuyên bố chiến tranh chống thuốc phiện. Năm 1909, Hội nghị của Ủy ban Quốc tế về thuốc phiện đã được tổ chức tại Thượng Hải. Các nước tham dự gồm Đức, liên quốc Áo-Hung (Autriche-hongrie), Trung Quốc, Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Ý, Nhật Bản, Hoà Lan, Ba Tư, Bồ-Đào-Nha, Nga và Thái Lan.
Mặc dù không đưa ra một nghị quyết cụ thể nào về việc chống thuốc phiện, hội nghị quốc tế này cũng đã giúp các nước quan tâm hơn đến vấn đề này.
Hoa Kỳ sau đó đã đề xướng tổ chức một Hội nghị lần thứ hai vào năm 1912 tại La Haye (Hoà Lan) vào năm 1912, nơi mà những biện pháp chống thuốc phiện cụ thể hơn đã được đưa ra, mặc dù tại hội nghị này Trung Quốc đã không chứng tỏ được sự từ bỏ hoàn toàn việc trồng cây thuốc phiện trên lãnh thổ của mình.
Tại Đông Dương, những biện pháp chống thuốc phiện đã bắt đầu được ghi nhận, mặc dù khó mà xác định được mức độ thực sự, vì đây là một nguồn tài chánh đáng kể. Từ tháng 6 năm 1907, một nghị định cấm việc mở thêm những tiệm hút mới đã được ban hành. Tuy nhiên, sự tăng giá thuốc phiện trong những năm kế tiếp đã làm lợi rất nhiều cho nền tài chánh công của chính quyền thuộc địa. Việc buôn bán chất ma túy sau đó được quy định lại vào năm 1915, trước hết là ở chính quốc và sau đó là tại Đông Dương.
Ở Đông Dương, có lẽ việc sản xuất thuốc phiện mãi tới năm 1954 mới thực sự chấm dứt.
Từ cây anh túc đến thuốc phiện…
Thuốc phiện được chiết xuất từ cây thuốc phiện trắng. Cây thuốc phiện được trồng ở các vùng đất cao mà trước khi gieo hạt đất phải được chuẩn bị kỹ lưỡng. Người ta gieo hạt vào tháng 11 và cây ra hoa vào tháng 2. Khi đó người ta bắt đầu hái các cánh hoa để dùng vào việc bao gói nhựa thuốc phiện. Vài ngày sau thì bắt đầu thu hoạch nhựa của quả thuốc phiện bằng cách dùng các cây cào 4 hoặc 5 lưỡi, rạch những vết rạch nhẹ theo chiều thẳng đứng lên quả thuốc phiện, từ cuống lên đầu quả. Chất nhựa trong quả chảy ra, lúc đầu như một chất sữa trắng, dần dần đặc lại và có mầu sậm hơn. Thông thường người ta phải rạch quả thuốc phiện như vậy 4 hoặc 5 lần trước khi quả cho hết nhựa.
Nhựa thuốc được bỏ vào trong những chậu bằng sành và để yên như vậy, sau vài ngày một chất lỏng đặc biệt gọi là «passewa» tách ra khỏi khối nhựa, và người ta gạn hết chất passewa ra khỏi khối thuốc.
Sau khi gạn sạch passewa, nhựa thuốc được để trong chậu cho tiếp xúc với không khí cho đến khi khối thuốc biến thành một tảng thuốc đặc và hơi mềm.
Khi đó thuốc được cho vào những hũ được niêm kín.
Trước khi vo lại thành những bánh thuốc có dạng quả tròn, người ta đổ nhựa thuốc ra những thùng lớn và để lưu lại đó cho đến khi nhựa thuốc đạt được độ đặc đúng tiêu chuẩn, tức là 70% nhựa thuốc và 30% nước.
Để vo tròn các bánh thuốc phiện, những người thợ lót dưới đáy một cái chậu đồng đã được hâm hơi ấm bằng một lớp dày khoảng 1 cm những cánh hoa thuốc phiện trộn dính với nhau bằng một chất lỏng đặc biệt gọi là “lewals”.
Kế đó người thợ bỏ tảng thuốc vào chậu và nhồi khối thuốc thành dạng quả tròn, và người ta phủ lên quả nhựa thuốc những cánh hoa thuốc phiện thấm đẫm dung dịch lewals. Bánh thuốc tròn sau đó được lấy ra khỏi chậu và lăn trên một lớp lá cây thuốc phiện nghiền vụn, rồi được để hong khô ngoài khí trời.
Các bánh thuốc phiện dạng quả tròn có trọng lượng là 1,750 kilogram mỗi bánh, và chúng được đóng trong các thùng chứa được 40 bánh.
Nguồn belleindochine.free.fr
Hình trích từ trang Flickr Manhhai và trang FB Reds.vn
Add new comment